Quy hoạch – công cụ của nhà nước kiến tạo, phát triển

Print Friendly, PDF & Email
1/5 - (1 bình chọn)

Tái cơ cấu nền kinh tế và công tác quy hoạch

Sau hai thập kỷ Đổi mới, Đại hội XI của Đảng năm 2011 chủ trương thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ; thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường. Trong bối cảnh đó, vấn đề đổi mới công tác quy hoạch được đặt ra cấp thiết hơn bao giờ hết.

Những năm qua, hoạt động quy hoạch nước ta tuy đạt một số kết quả nhất định nhưng nhìn chung không theo kịp yêu cầu đổi mới, cơ cấu lại nền kinh tế. Quy hoạch còn hỗn loạn, chồng chéo, vừa thừa vừa thiếu, do đó kém hiệu quả và rất tốn kém. Cụ thể là số lượng quy hoạch quá nhiều nhưng thiếu gắn kết do chưa có quy hoạch cấp quốc gia; và thiếu quy hoạch cấp vùng; quy hoạch các ngành hạ tầng, quy hoạch vùng quá manh mún, thiếu tính tích hợp; trong nền kinh tế thị trường vẫn lập quy hoạch các ngành sản xuất hàng hóa và dịch vụ như thời bao cấp. Phần lớn quy hoạch có chất lượng thấp, cứng nhắc, kém tính khả thi. Chiến lược/kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội tách rời quy hoạch không gian; năng lực tổ chức thực hiện quy hoạch yếu kém, thiếu linh hoạt, kém minh bạch.

TS. Phạm Sỹ Liêm phát biểu tại một Hội thảo về công tác quy hoạch

Từ thực tiễn quản lý và yêu cầu phát triển, việc chấn chỉnh công tác quy hoạch trở nên hết sức cần thiết, cấp thiết và được quy định thành nhiệm vụ ưu tiên 7 trong số 10 nhiệm vụ tái cơ cấu kinh tế giai đoạn 2016-2020 do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội Khóa XIV. Trong đó, bước khởi đầu đột phá mở ra thời kỳ mới chính là việc ban hành Luật Quy hoạch.

Quá trình đô thị hóa và quy hoạch quốc gia của các nước

Các nước đều có Luật Quy hoạch đô thị để tạo lập trật tự và hiệu quả của quá trình phát triển các đô thị trong buổi đầu đô thị hóa. Ngày nay, Luật Quy hoạch đô thị các nước đã có tỷ lệ đô thị hóa cao đều được bổ sung, điều chỉnh, thậm chí thay thế bằng luật mới để thích ứng với quá trình “tái phát triển”, “hồi sinh” đô thị trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu. Một số nước đã mở rộng luật này thành luật quy hoạch đô thị và nông thôn. Về quy hoạch ngành, các nước đều lập quy hoạch ở cấp quốc gia cho các ngành hạ tầng như giao thông, năng lượng, cấp thoát nước.

Sau Thế chiến II, nhiều nước ban hành Luật Quy hoạch vùng nhằm phục vụ tái thiết sau chiến tranh, làm căn cứ cho quy hoạch đô thị hoặc bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và cạnh tranh toàn cầu. Vùng có thể có chính quyền cấp vùng (như ở Đức, Pháp) hoặc không có (như Nhật Bản, Hàn Quốc), trong trường hợp sau thường lập ra tổ chức dưới dạng Hội đồng hay Ủy ban vùng để phối hợp quản lý riêng các hoạt động quy hoạch vùng. Dưới quy hoạch cấp vùng là quy hoạch cấp địa phương (tỉnh, huyện, đô thị, nông thôn).    

Quy hoạch cấp quốc gia các nước thường chỉ là quy hoạch hạ tầng và phân bổ dân cư. Chỉ có những quốc gia, vùng lãnh thổ theo mô hình “nhà nước kiến tạo phát triển”, như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc (thuộc khu vực Đông Á), cùng với một số nước tương tự quan tâm đến xây dựng quy hoạch tổng thể cấp quốc gia. Quy hoạch cấp quốc gia có thể giao cho một Bộ quản lý hay phân công cho một số Bộ, hoặc thành lập Hội đồng chuyên trách giúp chính phủ quản lý. Bước vào thế kỷ XXI, nhiều nước quan tâm lập quy hoạch vùng biển và ven bờ.

Cuộc cách mạng mới trong quản lý

Để thực sự tạo bước đột phá mới, bước chuyển mới có tính cách mạng trong quy hoạch phục vụ tái cơ cấu nền kinh tế và phát triển đất nước giai đoạn mới, nhằm khắc phục triệt để các yếu kém trong hoạt động quy hoạch hiện nay, việc ban hành Luật Quy hoạch chính là làm mới, nâng cao phương thức quản lý nhà nước ở tầm bao quát, thống nhất về không gian, thời gian, nguồn lực sao cho xứng tiềm năng. Vì vậy, Luật Quy hoạch mới cần đáp ứng được các yêu cầu: Hình thành thứ bậc (hierarchy) để tạo lập trật tự và gắn kết; quy hoạch cấp thấp hơn thì càng chi tiết hơn và phải tuân thủ quy hoạch cấp cao hơn; phù hợp với mô hình “nhà nước kiến tạo phát triển” (developmental state). Ngoài vai trò kiềm chế và khắc phục các ngoại ứng (externalities) xấu do hoạt động thị trường gây ra như các mô hình nhà nước khác, mô hình nhà nước kiến tạo đặc biệt chú trọng vai trò định hướng của nhà nước trong phát triển kinh tế; đề cao nguyên tắc “quy hoạch có sự tham gia” (participatory planning) của xã hội vào quá trình lập và thực hiện quy hoạch, bảo đảm tính dân chủ, công khai và minh bạch trong hoạt động quy hoạch.

Công cụ quy hoạch – công cụ quản lý – phải đạt được các mục tiêu như: Tích hợp quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội với quy hoạch phát triển không gian thành quy hoạch tổng thể (comprehensive planning); kiến lập hệ thống quy hoạch quốc gia có thứ bậc hoàn chỉnh; quy định trình tự, thủ tục xây dựng và thực hiện hệ thống quy hoạch quốc gia; phân định rõ trách nhiệm các cấp, các ngành trong hoạt động quy hoạch.

Chính vì vậy, Luật Quy hoạch phải là “luật khung” (framework law), nhằm đưa ra nhiệm vụ, các nguyên tắc và thủ tục để thực hiện nhiệm vụ này, rồi giao cho chính phủ căn cứ vào đó mà quy định cụ thể việc áp dụng tùy theo tình hình thực tế và nhu cầu của từng giai đoạn phát triển. Quốc hội có thể ban hành luật độc lập (substantive law) riêng cho mỗi quy hoạch quốc gia tổng thể đó.

Để thực hiện được mục tiêu đề ra, Luật Quy hoạch mới cần tạo điều kiện, môi trường vượt qua thách thức lớn “tự buộc chân mình”; bảo đảm tính đồng bộ cho việc ban hành quy hoạch tổng thể các cấp; xây dựng thể chế quản lý và nâng cao năng lực thực hiện; sự tham gia của cộng đồng và trách nhiệm giải trình, tính minh bạch.

TS. PHẠM SỸ LIÊM – Phó Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam, Nguyên Thứ trưởng Bộ Xây dựng

nguồn “Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam”

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Vietnamese VI English EN Chinese (Traditional) ZH-TW Japanese JA Korean KO
02543816640
Call Now Button